Ngày nay, Macro là một trong những thể loại chính yếu được nhiều nhiếp ảnh trên toàn thế giới đam mê và theo đuổi. Với chiếc ống kính có khả năng phóng đại, người chơi sẽ có cơ hội mở ra một thế giới hoàn toàn mới mà mắt thường không nhìn thấy. Với nguyên lý vô cùng đơn giản cứ đưa ống kính càng xa ngàm máy ảnh thì sẽ tăng khả năng tiếp cận và đến gần hơn với chủ thể, đồng nghĩa độ phóng đại sẽ càng tăng. Ống kính Macro đã có từ rất lâu. Không chỉ đóng góp vào sự phát triển cho ngành nhiếp ảnh mà còn góp phần vào giáo dục và khoa học. Ngày nay nhiếp ảnh Macro là một phần chính yếu trong nhiếp ảnh thương mại. Chúng ta cùng nhìn về lịch sử để hiểu nguồn gốc của thể loại này.
Một trong những bức ảnh macro đầu tiên của NAG.Arthur Smith - Năm 1909
Điều đầu tiên để tìm hiểu về lịch sử của nhiếp ảnh Macro, cần hiểu định nghĩa của nó. Chụp ảnh Macro là kỹ thuật chụp cận ảnh và phóng đại hình ảnh. Tùy theo ống kính và khoảng cách lấy nét mà có tỷ lệ phóng đại khác nhau. Ứng với từng tỷ lệ phóng đại, các nhà kỹ thuật phân ra thành 2 thể loại. Tỷ lệ nhỏ hơn hay bằng 10x được gọi là thể loại Macro. Lớn hơn tỷ lệ này được gọi là Micro. Tuy nhiên, không có một tổ chức nào đến nay công nhận ranh giới giữa 2 thể loại này. Trong nhiếp ảnh, lịch sử ghi nhận rằng thể loại ảnh Macro đã khai sinh và dẫn tới sự phát triển của nhiếp ảnh Micro. Dù ban đầu kỹ thuật Micro chủ yếu chụp qua kính hiển vi, thay vì ống kính Micro gắn trên máy ảnh. Vì thế người ta gọi chung 2 thể loại này là nhiếp ảnh Macro.
Người đầu tiên đề xuất khái niệm Macro là NAG.Thomas Wedgewood, ông đã viết một bài báo nói về các phương pháp sao chép các bức hội họa nhỏ bằng cách sử dụng nitrat bạc và ánh sáng. Wedgewood sống trong thời gian từ năm 1771 đến năm 1805, đây là cột mốc để tham chiếu đến thời điểm ra đời nhiếp ảnh Marco. Và đến năm 1830, NAG.William Henry Fox Talbot là một trong số những người đầu tiên thực hiện kỹ thuật Micro bằng cách sử dụng máy ảnh gắn ống kính hiển vi để tạo ra bức ảnh có độ phóng đại khoảng 20 lần.
Trong những thời kỳ đầu tiên, nhiếp ảnh Macro chủ yếu được dùng trong mục đích phục vụ cho khoa học và kỹ thuật, cho phép các nhà nghiên cứu ghi lại những vật rất nhỏ không thể thấy bằng mắt thường để nghiên cứu. Mãi cho đến đầu những năm 1900, nhiếp ảnh Macro mới bắt đầu trở thành một bộ môn nghệ thuật và sau đó phục vụ cho cả mục đích giáo dục.
NAG.Frank Percy Smith
Một trong những người tiên phong đầu tiên của nhiếp ảnh Macro là NAG.Frank Percy Smith, ông chuyên về cả hai lãnh vực điện ảnh và nhiếp ảnh. Smith đã đưa nhiếp ảnh Macro vào tâm trí của người xem thông qua một loạt các bộ phim tài liệu được quay với độ phóng đại cao. Một trong những bộ phim đầu tiên là “Mô tả cách con ruồi bay” sản xuất năm 1909, theo sau là bộ phim “Bay nhào lộn“ vào năm 1910 và đến nay vẫn là một trong những bộ phim nổi tiếng nhất của ông.
Tác phẩm của Smith đã bị giữ lại trong Thế chiến I khi ông phục vụ trong hải quân Anh như một nhiếp ảnh gia trên không và trong vai trò nhà làm phim hoạt hình miêu tả các trận đánh khác nhau. Sau khi chiến tranh kết thúc, ông đã trở lại với niềm đam mê thực sự của mình, đó là cuộc sống nhà quay phim phóng đại. Ông đã sản xuất thêm một số bộ phim ở quy mô lớn bao gồm “Bí mật của tự nhiên” vào năm 1922, “Câu chuyện trước khi ngủ của kiến“ và “Thế giới trong rượu vang” vào năm 1931.
Điều thú vị về nhiếp ảnh Macro là thiết bị đầu tiên không khác nhiều so với thiết bị mà chúng ta sử dụng hiện nay. Dù hiện nay có nhiều thiết bị tân tiến, nhưng các thiết bị thời kỳ đầu vẫn còn sử dụng được đến ngày nay.
Thuở ban đầu, khi chụp ảnh Macro không có ống kính Macro thật sự. Thiết bị chụp Macro làm ra theo nguyên tắc tăng khoảng cách giữa ống kính và bề mặt phim. Bằng cách này, các nhiếp ảnh gia có thể lấy nét ở khoảng cách gần ngay trước ống kính, như thiết bị vòng vải xếp hay ống nối để chụp cận ảnh.
Ống kính Macro đầu tiên Kilfitt Makro-Kilar 4CM
Cho đến trước năm 1950, nhiếp ảnh Macro chủ yếu dựa vào thiết bị vòng vải xếp và ống nối. Nhưng đến năm 1955, một ống kính đã được sản xuất đã làm thay đổi mọi thứ. Đây là ống kính Kilfitt Makro-Kilar 4CM của hãng Heinz Kilfitt sản xuất ở Tây Đức. Đó cũng là ống kính Macro đầu tiên trong lịch sử cho phép lấy nét cố định ở phạm vi gần.
Chúng ta tự hỏi vì sao phải mất khá lâu để tạo ra một ống kính Macro thật sự. Câu trả lời là do máy ảnh SLR 35mm. Ống kính Macro và chụp ảnh Macro nói chung rất khó sử dụng trên các loại máy ảnh khác không dùng cơ chế gương phản xạ. Nói một cách khác, những máy ảnh đó không cho phép nhìn chính xác qua khung ngắm như những gì ống kính nhìn thấy, do bởi hiện tượng thị sai. Những ưu điểm của máy ảnh SLR đã giúp thiết kế ra nhiều loại ống kính, trong đó có ống kính Macro. Từ đó, thể loại này bắt đầu phổ biến trên toàn thế giới, không chỉ đơn giản là một công cụ cho khoa học mà còn là một hình thức nghệ thuật của riêng thể loại này.